Theo thông tin, vào ngày 22 tháng 5, ông Cui Dongshu đã công bố rằng theo phân tích dữ liệu của Hiệp hội Liên minh sạc điện Trung Quốc, tổng số trạm sạc công cộng vào tháng 4 năm 2025 đạt 3.990.000 cái, số lượng trạm sạc công cộng tăng 92.000 cái so với tháng trước, tăng 67.600 cái so với tháng 4 năm ngoái, tương đương tăng trưởng 36%. Các trạm sạc tư nhân kèm theo xe hiện có 10.070.000 cái, tăng 223.000 cái so với tháng trước, giảm 4%; trong tháng 4, trung bình mỗi trạm công cộng đã sạc được 1.538 kWh, tăng so với 1.324 kWh của tháng 4 năm ngoái.
Trong những năm gần đây, cơ sở hạ tầng sạc điện ở nước ta đã phát triển nhanh chóng, tạo thành hệ thống cơ sở hạ tầng sạc lớn nhất thế giới với phạm vi phục vụ rộng nhất và nhiều loại hình nhất. Tỷ lệ sử dụng sạc công cộng gấp ba lần sạc tư nhân, tức là mối quan hệ 3:1, do đó tỷ lệ giữa cơ sở sạc và doanh số xe điện thuần túy trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2025 đạt 0,99, gần như là tỷ lệ 1:1, nhờ vào việc lắp đặt trạm sạc công cộng gia tăng đột biến, tỷ lệ tổng thể giữa xe và trạm sạc đã đạt đến mức tương đối thoải mái là 1:1.
Hiện nay, cơ sở hạ tầng sạc điện vẫn còn một số vấn đề cần cải thiện như bố trí chưa hoàn thiện, cấu trúc không hợp lý, công nghệ trạm sạc cũ lạc hậu, dịch vụ chưa đồng đều và hoạt động chưa quy chuẩn. Tỷ lệ mua xe điện ở một số vùng thấp cũng đang gia tăng. Tin rằng với quy mô ngày càng tăng, độ khó điều chỉnh thấp, tiềm năng phát triển xe điện sẽ lớn hơn.
Hiện tại, quy mô phát triển các trạm sạc DC khá lớn, với các nhà điều hành hàng đầu có hiệu suất tốt. Trạm sạc của GAC Energy vào tháng 4 đạt trung bình 6.804 kWh, mỗi tháng đều hoạt động tốt. Trạm sạc của NIO (09866) đạt khoảng 2.238 kWh. Giai đoạn trước, Tesla (TSLA.US) đạt 3.634 kWh, tất cả đều hoạt động tốt. Tuy nhiên, một số trạm sạc cũ chỉ đạt trung bình hơn 100 kWh một tháng, trong khi các công ty sạc chủ lực có sản lượng sạc trung bình hàng tháng ở mức nghìn kWh, tạo ra sự khác biệt về hiệu quả từ vài lần đến hàng chục lần. Các công ty điện tử quan tâm đến xu hướng tăng trưởng nhanh của xe điện, đặc biệt là xe điện, cần tiếp tục xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng sạc chất lượng cao, cập nhật các trạm sạc AC công suất thấp cũ, gia tăng nâng cấp các trạm sạc DC nhanh công suất cao để phục vụ tốt hơn nhu cầu mua và sử dụng xe điện của người dân, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh và hiện đại hóa hạ tầng giao thông.
1. Tình trạng tổng thể của trạm sạc
Cơ sở hạ tầng sạc cung cấp dịch vụ sạc và thay pin cho xe điện, là cơ sở hạ tầng quan trọng cho sự hòa nhập năng lượng giao thông.
Số lượng trạm sạc công cộng vào năm 2021 tăng thêm 340.000 cái, nhưng tăng hàng năm đã giảm 18% so với năm 2020. Trạm sạc tư nhân cùng với xe thì tăng thêm 600.000 cái so với cuối năm 2020, nhưng tăng hàng năm cũng giảm 32% so với năm 2020.
Số lượng trạm sạc công cộng vào năm 2022 tăng thêm 650.000 cái, với tốc độ tăng hàng năm đạt 92% so với năm 2021. Các trạm sạc tư nhân cũng tăng thêm 1.940.000 cái so với cuối năm 2021, tương đương tăng trưởng hàng năm là 226%.
Số lượng trạm sạc công cộng vào năm 2023 tăng thêm 930.000 cái, tốc độ tăng hàng năm đạt 43% so với năm 2022. Các trạm sạc tư nhân tăng thêm 2.457.000 cái so với cuối năm 2022, tương đương tăng trưởng hàng năm là 27%.
Số lượng trạm sạc công cộng vào năm 2024 tăng thêm 850.000 cái, tốc độ tăng hàng năm giảm 8% so với năm 2023. Các trạm sạc tư nhân cũng tăng thêm 3.370.000 cái so với cuối năm 2023, tương đương tăng trưởng hàng năm là 37%.
Tổng số trạm sạc công cộng vào tháng 4 năm 2025 đạt 3.990.000 cái, số lượng trạm công cộng tăng 92.000 cái so với tháng trước, cũng tăng 67.600 cái so với tháng 4 năm ngoái, tăng trưởng 36%. Số lượng trạm sạc tư nhân hiện đang ở mức 10.070.000 cái, tăng 223.000 cái so với tháng trước, giảm 4%; trung bình mỗi trạm công cộng đã sạc 1.538 kWh trong tháng 4, tăng so với 1.324 kWh trong tháng 4 năm ngoái.
2. Tình trạng tăng trưởng hàng tháng của trạm sạc
Đến cuối tháng 4 năm 2025, số lượng trạm sạc công cộng đã tăng 410.000 cái so với cuối năm 2024, tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Đến cuối tháng 4 năm 2025, số lượng trạm sạc tư nhân đã tăng 830.000 cái so với cuối năm 2024, tốc độ tăng trưởng cũng khá nhanh.
Đến cuối tháng 4 năm 2025, số lượng trạm thay pin đã tăng thêm 3.150.000 cái so với cuối năm 2024, trong vài tháng qua đạt tốc độ tăng trưởng nhanh.
Trạm sạc chủ yếu phục vụ sạc tư nhân. Theo khảo sát, thông thường, mọi người sử dụng trạm sạc tự có, trạm sạc chia sẻ và các trạm sạc công cộng trong khu dân cư hoặc công ty, mỗi loại chiếm tỷ lệ từ 22% đến 26%, tổng thể đạt khoảng 75%. Một số ít người tham gia khảo sát sạc tại các trạm sạc công cộng bên ngoài khu dân cư, còn một số người khác sạc tại các trạm sạc công cộng tại trung tâm thương mại, rạp chiếu phim.
3. Phân tích đặc điểm trạm sạc công cộng ở các địa phương
Đến tháng 4 năm 2025, số lượng trạm sạc công cộng ở Quảng Đông tăng 17.437 cái, thị phần trạm sạc cũng đạt 19%, tăng 10.300 cái so với tháng 4 năm trước, thị phần đạt 15%, năm nay có sự tăng trưởng.
Tình hình các trạm sạc công cộng ở các nơi rất khác nhau, chủ yếu ở các thành phố phát triển có quy mô lớn hơn. Quảng Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải và Bắc Kinh có sự phát triển tốt về xây dựng trạm sạc.
Đến tháng 4 năm 2025, số lượng trạm sạc ở Sơn Đông tăng khoảng 4.200 cái, thị phần tương đối giảm. Tình trạng cơ sở sạc ở Bắc Kinh đã rất lớn, nhưng tăng trưởng chậm lại, điều này cũng áp dụng cho Thượng Hải.
Hiện nay, tỷ lệ xe trên trạm sạc công cộng ở nước ta cao hơn nhiều so với châu Âu và Mỹ, nhưng vẫn tồn tại vấn đề về tỷ lệ sử dụng chưa đủ: đầu tiên, độ phủ không đầy đủ. Hiện tại, còn 10% khu vực dịch vụ trên đường cao tốc chưa được phủ sóng, tỷ lệ cơ sở hạ tầng sạc ở nông thôn chưa đến 5%; thứ hai, cấu trúc không hợp lý. 99% cơ sở hạ tầng sạc vẫn là sạc nhanh và sạc chậm, 64% trạm sạc DC công cộng vẫn là trạm có điện áp dưới 750V, không thể hỗ trợ sự phát triển của sạc siêu nhanh với điện áp trên 800V trong giai đoạn tiếp theo. Từ góc độ vi mô: đầu tiên, chi phí bảo trì cao. Tỷ lệ thiết bị không hoạt động đạt trên 30%, mức độ số hóa thấp làm tăng thêm khó khăn và chi phí cho việc quản lý bảo trì; thứ hai, thiết bị làm lạnh bằng gió có chất lượng kém. Tuổi thọ của thiết bị chỉ từ 3-5 năm, các nhà điều hành chưa thu hồi được vốn đầu tư đã phải đối mặt với việc thay thế; thứ ba, chất lượng dịch vụ kém. Tỷ lệ trạm sạc không hoạt động đã lên đến 10%, không thể sạc và làm gia tăng lo lắng cho người dùng về việc sạc.
4. Phân tích đặc điểm các công ty sạc
Các nhà điều hành trạm sạc ở nước ta có thể chia thành bốn loại: 1) Các công ty tích hợp sản xuất trạm sạc và đầu tư, vận hành mạng lưới sạc, chủ yếu sử dụng mô hình tài sản nặng, tập trung vào việc vận hành tài sản tự có, và hợp tác với các nhà điều hành khác và nền tảng bên thứ ba, bao gồm Xingxing Charging (thuộc Wanbang Digital), Tè Lai Điện (Teruid), Wanma Aichong (Wanma Co., Ltd.), Putian New Energy, Shanghai Yiwei Energy, Shenzhen Che Dian Wang (được công ty Kelu Electronics đầu tư). 2) Mạng lưới trạm sạc tự xây dựng của lưới điện, bao gồm Tập đoàn Điện lực Quốc gia (Công ty Dịch vụ Xe điện Quốc gia) và Tập đoàn Điện lực Nam Trung Quốc (Công ty Dịch vụ Xe điện Nam Trung Quốc). 3) Các tập đoàn xe lớn tự xây dựng mạng lưới sạc, bao gồm Tesla, NIO, Xiaopeng, SAIC Anyue, GAC Energy, trong đó một số xây dựng và vận hành mạng lưới sạc được ủy thác cho các nhà điều hành trạm sạc có tài sản và các nhà cung cấp dịch vụ sạc bên thứ ba. 4) Các nhà điều hành mạng lưới sạc bên thứ ba, như Yun Kuai Chong, Xiao Ju Charging (thuộc Didi Chuxing), Shenzhen Hui Neng, chủ yếu áp dụng mô hình tài sản nhẹ, tập trung vào thị trường dài hạn về trạm sạc, cung cấp dịch vụ SaaS cho các nhà điều hành khu vực, thực chất là nhà cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin.
Ngành công nghiệp vận hành trạm sạc trong nước hiện đang đối mặt với bốn rào cản cạnh tranh về vốn, địa điểm, công suất lưới điện và tài nguyên dữ liệu, hiện đang hình thành hiệu ứng “Mác”, nơi mà các công ty hàng đầu đang gia tăng sự tập trung thị trường. Quy mô phát triển của trạm sạc DC hiện rất lớn, với các nhà điều hành hàng đầu có hiệu suất tốt. Các trạm sạc của GAC Energy đạt trung bình 6.804 kWh vào tháng 4, hoạt động tốt mỗi tháng. Trạm sạc của NIO đạt khoảng 2.238 kWh. Trạm sạc của Tesla trước đó đạt 3.634 kWh, tất cả đều hoạt động tốt. Tuy nhiên, một số trạm sạc cũ chỉ có trung bình hơn 100 kWh mỗi tháng, trong khi các công ty sạc chủ lực có trung bình hàng tháng ở mức nghìn kWh, tạo ra sự chênh lệch hiệu quả rất lớn từ vài lần đến hàng chục lần. Dữ liệu hàng tháng của Tesla duy trì ổn định và khá tốt.
Trạm sạc được phân chia thành hai loại: trạm sạc DC (sạc nhanh) và trạm sạc AC (sạc chậm). Trạm sạc DC: có kích thước lớn hơn, có điện áp cao, công suất lớn và khả năng sạc nhanh, yêu cầu cao đối với lưới điện, thường được xây dựng tại các khu vực dịch vụ đường cao tốc, xe buýt, do đó số lượng tương đối ít, chiếm khoảng 20%. Trạm sạc AC: giá thành tương đối thấp, dễ lắp đặt, thường là sở hữu tư nhân, do đó số lượng nhiều hơn và phân bố rộng rãi, chiếm hơn 80%. Từ góc độ xu hướng phát triển công nghệ, trạm sạc DC đang dần hướng tới phát triển công suất lớn.
Từ góc độ so sánh quốc tế, các trạm sạc công cộng chuyên dụng có hiệu suất tốt nhất, việc sạc có nhu cầu cố định như xe buýt hoạt động rất hiệu quả. Số lượng trạm sạc DC công cộng và mật độ trạm sạc DC đều có xu hướng tăng lên trên toàn cầu. Trung Quốc đang dẫn đầu trong việc thúc đẩy các trạm sạc DC: ví dụ, vào năm 2024, tỷ lệ trạm sạc DC công cộng trong mạng lưới Trung Quốc vượt quá 42%. Đồng thời, Trung Đông đã trở thành một “ngôi sao nổi lên” trong lĩnh vực trạm sạc DC: tỷ lệ trạm sạc DC đã tăng 7% vào năm 2022, đạt hơn 21%; mật độ trạm sạc DC cũng tăng 125%, đạt 1,3 trạm sạc DC mỗi 100 km đường. Hai số liệu trên đều dự kiến sẽ tiếp tục tăng nhanh chóng.
Trải nghiệm sạc tối ưu phải có ba đặc điểm: đầu tiên, sạc không lo lắng. Cung cấp dịch vụ một chạm, trạng thái trạm sạc có thể nhìn thấy, hướng dẫn thông minh. Thứ hai, sạc không phiền. Quá trình sạc rất êm ái, một lần sạc thành công mà không bị ngắt. Thứ ba, sạc không bận tâm. Đồng bộ giữa xe và trạm sạc, ngăn chặn nhiễu điện từ, bảo vệ sức khỏe con người và tài sản. Các trạm sạc AC có hai thiếu sót lớn, một là không thể thực hiện tương tác với lưới điện, chỉ có thể cung cấp năng lượng theo chiều một chiều, không hỗ trợ V2G; hai là không thể đồng bộ giữa xe và trạm, thiếu tính kết nối số hóa giữa các trạm sạc. Giải pháp DC công suất nhỏ so với các trạm sạc AC truyền thống sẽ thực hiện tốt hơn sự tương tác giữa xe và lưới điện và trải nghiệm số hóa, đem lại ba giá trị: sạc nhanh hơn, không bị giới hạn bởi OBC, tốc độ sạc tăng từ 3-5 lần; phát triển lâu dài, hỗ trợ cắm và sạc, thanh toán tích điểm, các chức năng V2G; triển khai rộng rãi, trong cùng điều kiện điện, có thể đạt đến tỷ lệ phủ sóng gấp 3 lần, nâng cao 50% hiệu quả sử dụng điện lưới.
5. Phân tích khả năng đáp ứng nhu cầu của trạm sạc
Số lượng xe điện thuần túy trong nước bán ra vào tháng 4 năm 2025 đạt 559.000 chiếc, với 92.000 trạm công cộng và 223.000 trạm tư nhân được xây dựng. Nếu so sánh tỉ lệ giữa xe và trạm sạc công cộng với tư nhân theo tỉ lệ 1:1, thì tỷ lệ giữa xe và trạm sạc vào tháng 4 năm 2025 là 1,8:1, nghĩa là các trạm sạc đang tương đối dồi dào. Tại đây cần tách ra yếu tố đặc biệt là tỷ lệ sạc cho xe tích hợp ít. Đây là đặc điểm của mô hình Thượng Hải, chỉ sử dụng dầu mà không sạc điện.
Nhưng nếu xét đến tỷ lệ sử dụng, với tỷ lệ sử dụng trạm công cộng gấp ba lần trạm tư nhân, tức là mối quan hệ 3:1, thì tỷ lệ thiết bị sạc trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2025 đạt 0,99, gần như là tỷ lệ 1:1, do sự gia tăng đột biến trong lắp đặt trạm công cộng, tỷ lệ tổng thể giữa xe và trạm sạc đã đạt đến mức tương đối thoải mái là 1:1.
Chính phủ đã rõ ràng trong kế hoạch phát triển năng lượng mới rằng sạc chậm tại nhà là xu hướng phát triển, muốn chiếm tới hơn 90%. Hiện tại, sự phát triển của trạm tư nhân còn chậm, nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phổ biến của xe điện.
Theo khảo sát, mức độ hài lòng của người sử dụng trạm sạc tự có về độ dồi dào của trạm sạc, tính hợp lý trong bố trí, giá cả sạc và tính chính xác trong thanh toán đều cao hơn so với những người chọn sử dụng các hình thức khác. Trạm sạc riêng là của nhà xe, đáp ứng nhu cầu sạc tại nhà, thường được lắp đặt cùng với xe, có số lượng khách hàng lớn, là lực lượng chủ lực của cơ sở hạ tầng sạc.